Phân loại Hygrocybe chlorophana

Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1821 bởi nhà khoa học người Scandinavi Elias Magnus Fries, với tên khoa học là Agaricus chlorophanus, dựa trên các mẫu vật được thu thập tại địa phương ở Thụy Điển. Năm 1877, nhà nấm học người Đức Friedrich Otto Wünsche đã chuyển nó sang chi Hygrocybe. Các cách gọi cụ thể xuất phát từ tiếng Hy Lạp (= xanh nhạt) + φαίωω (= tôi xuất hiện),[2] mặc dù không rõ tại sao Fries chọn biểu tượng này, sau đó được ông mô tả cơ thể quả của nó là "flavus" (tiếng Latin = màu vàng).

Gần đây, phân tử nghiên cứu dựa trên cladistic phân tích trình tự DNA, đã gợi ý rằng Hygrocybe chlorophana thuộc trong nhóm nòng cốt của nhóm Hygrocybe sensu stricto.[3]